Ở các quốc gia Ô nhiễm đất

Tiêu chuẩn nồng độ các chất ô nhiễm ở quốc gia là khác nhau, đặc biệt bao gồm Hoa Kỳ EPA khu vực 9 mục tiêu xử lý sơ bộ chất ô nhiễm (US ​​PRGS), khu vực EPA Hoa Kỳ 3 đánh giá rủi ro dựa trên nồng độ (U.S. EPA RBCs) và Hội đồng Bảo vệ môi trường quốc gia của Úc hướng dẫn về mức nghiên cứu trong đất và nước ngầm.

Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

Sự phát triển to lớn và bền vững của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ những năm 1970 đã phải trả một giá cho sự tăng ô nhiễm đất. Cục Quản lý bảo vệ môi trường Nhà nước tin rằng nó là một mối đe dọa đối với môi trường, an toàn thực phẩm và nông nghiệp bền vững. Theo một mẫu nghiên cứu khoa học, 150 triệu dặm (100.000 km vuông) đất canh tác của Trung Quốc đã bị ô nhiễm, với nước bị ô nhiễm đang được sử dụng để tưới thêm 31,5 triệu dặm (21.670 km vuông.) Và 2 triệu dặm khác (1.300 km vuông) bị phủ hoặc bị phá hủy bởi chất thải rắn. Tổng cộng, khu vực ô nhiễm này chiếm một phần mười của đất canh tác của Trung Quốc, và chủ yếu là ở các vùng kinh tế phát triển. Ước tính có khoảng 12 triệu tấn ngũ cốc bị ô nhiễm kim loại nặng mỗi năm, gây thiệt hại trực tiếp là 20 tỷ nhân dân tệ (2.57 tỷ USD).[8]

Anh

Hướng dẫn chung thường được sử dụng trong Vương quốc Anh là Hướng dẫn các giá trị của đất được xuất bản bởi DEFRA và Cơ quan Môi trường. Đây là sàng lọc các giá trị chứng minh mức độ tối thiểu chấp nhận được của một chất. Điều trên có thể không có sự đảm bảo về nguy cơ có hại cho sức khỏe con người. Chúng có nguồn gốc từ mô hình đánh giá sự tiếp xúc với chất ô nhiễm (Clea Anh). Một số thông số đầu vào như giá trị tiêu chí sức khỏe, độ tuổi và sử dụng đất được đưa vào Clea Anh để có được một đầu ra có thể chấp nhận được.

Hướng dẫn của Hội đồng liên phòng ban cho Tái phát triển đất bị ô nhiễm (ICRCL) đã được chính thức theo dõi bởi Bộ Môi trường, Thực phẩm và Nông thôn (DEFRA), để sử dụng như một tài liệu với quy tắc để xác định tiềm năng cần thiết cho khắc phục hoặc đánh giá thêm.

Mô hình CLEA được phát hành bởi DEFRA và cơ quan môi trường (EA) vào tháng 3 năm 2002 tạo nên một khuôn mẫu thích hợp cho đánh giá rủi ro về sức khỏe con người ở các vùng đất bị ô nhiễm,cũng như được đòi bởi phần 2A của kế hoạch hành động bảo vệ môi trường năm 1990. Một phần khuôn mẫu này, hướng dẫn về giá trị ô nhiễm đất chung (VGVs) cũng vừa được bắt nguồn từ mười chất gây ô nhiễm được dùng như "giá trị can thiệp". Những giá trị này không nên đánh giá như mục tiêu xử lý nhưng giá trị trên, cái dùng để đánh giá sâu hơn,nên được nhận định; như quy chuẩn của Hà Lan.

Ba yếu tố tạo thành của CLEA SGVs cho ba đất có mục đích sử dụng khác nhau, đó là:

  • Nơi cư trú (có hay không có nhà máy)
  • Sự phân phối
  • thương mại/công nghiệp

Điều này có dụng ý rằng SGVs thay thế sự tạo thành giá trị ICRCL. Nó nên được chú ý rằng CLEA SGVs liên quan đến đánh giá rủi ro lâu dài đến sức khỏe con người và không áp dụng cho bảo vệ công nhân trong suốt quá trình xây dựng, hoặc những người có nguy cơ tiếp nhận rủi ro khác như nước ngầm, nhà cửa, cây cối, nhà máy và các hệ sinh thái khác. CLEA SGVs không ứng dụng trực tiếp cho khu vực hoàn toàn bao bọc bởi công trình rắn, cũng như không có tiếp xúc trực tiếp thường xuyên với đất ô nhiễm.

Cho đến ngày hôm nay, mười chất đầu tiên trong số năm mươi lăm chất ô nhiễm mà SGVs công bố, gồm: arsenic, cadmium, chromium, chì, thủy ngân vô cơ, nickel, selen ethyl benzene, phenol và toluene. Bản phác thảo SGVs cho benzene, naphthalene và xylene vừa được tiến hành những chưa được công bố. Dữ liệu về tính độc hại (Tox) được công bố cho mỗi chất ô nhiễm cũng như cho benzo[a]pyrene, benzene, dioxins, furans and dioxin-like PCBs, naphthalene, vinyl chloride, 1,1,2,2 tetrachloroethane và 1,1,1,2 tetrachloroethane, 1,1,1 trichloroethane, tetrachloroethene, carbon tetrachloride, 1,2-dichloroethane, trichloroethene và xylene. SGVs cho ethyl benzene, phenol và toluene phụ thuộc vào giá trị thành phần hữu cơ trong đất (SOM)(được tính toán từ tồng cácbon hữu cơ (TOC). Cũng như một thông báo ban đầu là SGVs cho 1% SOM được nhận định là thích hợp.